Điều 9, Luật Tố cáo
“Điều 9. Quyền
và nghĩa vụ của người tố cáo
1. Người tố cáo có các quyền sau đây:
a) Gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
b) Được giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các
thông tin cá nhân khác của mình;
c) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
thông báo về việc thụ lý giải quyết tố cáo, thông báo chuyển vụ việc tố cáo
sang cơ quan có thẩm quyền giải quyết, thông báo kết quả giải quyết tố cáo;
d) Tố cáo tiếp khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết
tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không đúng pháp luật hoặc
quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết;
đ) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo
vệ khi bị đe dọa, trả thù, trù dập;
e) Được khen thưởng theo quy định của pháp luật.
2. Người tố cáo có các nghĩa vụ sau đây:
a) Nêu rõ họ, tên, địa chỉ của mình;
b) Trình bày trung thực về nội dung tố cáo; cung cấp
thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo mà mình có được;
c) Chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung tố cáo
của mình;
d) Bồi thường thiệt hại do hành vi cố ý tố cáo sai sự
thật của mình gây ra.”.
Điểm a, Khoản 1, Điều 109 Luật Tố tụng Hành chính
“Điều 109. Trả lại đơn khởi kiện
1. Toà án trả lại đơn khởi kiện trong
những trường hợp sau đây:
a)
Người khởi kiện không có quyền khởi kiện;
b) Người khởi kiện không có đủ năng lực
hành vi tố tụng hành chính;
c) Thời hiệu khởi kiện đã hết mà không
có lý do chính đáng;
d) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện vụ án
hành chính;
đ) Sự việc đã được giải quyết bằng bản
án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật;
e) Sự việc không thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án;
g) Người khởi kiện lựa chọn giải quyết vụ
việc theo thủ tục giải quyết khiếu nại trong trường hợp quy định tại Điều 31
của Luật này;
h) Đơn khởi kiện không có đủ nội dung
quy định tại khoản 1 Điều 105 của Luật này mà không được người khởi kiện sửa
đổi, bổ sung theo quy định tại Điều 108 của Luật này;
i) Hết thời hạn được thông báo quy định
tại khoản 1 Điều 111 của Luật này mà người khởi kiện không xuất trình biên lai
nộp tiền tạm ứng án phí cho Toà án, trừ trường hợp có lý do chính đáng.
2. Khi trả lại đơn khởi kiện và các tài
liệu kèm theo cho người khởi kiện, Toà án phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại
đơn khởi kiện. Văn bản trả lại đơn khởi kiện được gửi ngay cho Viện kiểm sát
cùng cấp.”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét